Đồng tính Tính dục nam ở người

Xu hướng tính dục và bản dạng giới

Xu hướng tính dục đề cập đến việc một người cảm thấy bị hấp dẫn với nam giới, nữ giới, hoặc cả hai. Hầu hết các nhà nghiên cứu về xu hướng tính dục đều tập trung vào các kiểu hấp dẫn hơn là hành vi hay bản dạng, vì văn hoá ảnh hưởng đến thể hiện hành vi hoặc bản dạng và chính sự hấp dẫn thúc đẩy hành vi và bản dạng, chứ không phải ngược lại.[1]

Ngoài dị tính hoặc đồng tính, các cá nhân có thể là song tính ở nhiều mức độ khác nhau.[1][24] Bailey và cộng sự tuyên bố, họ cho rằng trong mọi nền văn hoá, đại đa số mọi người đều dị tính, với một số thiểu số là đồng tính, dù có hoàn toàn hay không.[1] Trong các cuộc khảo sát ở phương Tây, khoảng 93% nam giới xác nhận bản thân hoàn toàn dị tính, 4% hầu hết dị tính, 0.5% song tính đồng đều, 0.5% hầu hết đồng tính và 2% hoàn toàn đồng tính.[1][24] Một phân tích trên 67 nghiên cứu cho thấy tỷ lệ quan hệ tình dục trong suốt cuộc đời giữa nam giới với nam giới (bất kể xu hướng tính dục) là 3-5% đối với Đông Á, 6-12% đối với Nam và Đông Nam Á, 6-15% đối với Đông Âu và 6- 20% với Châu Mỹ Latinh.[25] Tổ chức Y tế Thế giới ước tính tỷ lệ nam giới quan hệ tình dục đồng giới trên toàn thế giới từ 3 đến 16%.[26]

Xu hướng tính dục có thể được đo lường thông qua tự báo cáo hoặc qua sinh lý. Có nhiều phương pháp sinh lý học tồn tại, bao gồm đo độ cương cứng của dương vật, thời gian nhìn, fMRI và độ giãn đồng tử. Ở nam giới, tất cả những điều này đều cho thấy mức độ tương quan cao với các biện pháp tự báo cáo,[1] bao gồm cả những người đàn ông tự báo cáo là "hầu hết thẳng" hoặc "hầu hết đồng tính".[24]

Tác động của mối quan hệ đồng giới lên các bản dạng cá nhân là khác nhau ở các nền văn hóa. Câu hỏi về cách thức chính xác mà các nền văn hóa trong lịch sử hình thành khái niệm về ham muốn và hành vi đồng tính vẫn còn nhiều tranh cãi.[27][28]

Trong phần lớn thế giới hiện đại, bản dạng tính dục được xác định dựa trên giới tính bạn tình. Tuy nhiên, ở một số nơi trên thế giới, tính dục thường được xã hội định nghĩa dựa trên vai trò tình dục, một người là người thâm nhập hay bị thâm nhập.[26][29]

Nguyên nhân

Mặc dù chưa có thuyết lý giải nào nhận được sự ủng hộ rộng rãi, nhưng có nhiều bằng chứng ủng hộ các nguyên nhân phi xã hội của xu hướng tính dục hơn so với các nguyên nhân xã hội, đặc biệt là đối với nam giới. Bằng chứng này bao gồm mối tương quan giữa đồng tính và sự không theo chuẩn về giới ở thời thơ ấu, ảnh hưởng di truyền có mức độ vừa phải được tìm thấy trong các nghiên cứu sinh đôi, bằng chứng về tác động của hormone trước khi sinh đối với tổ chức não, hiệu ứng thứ tự sinh anh em trai và phát hiện rằng trong một số trường hợp hiếm hoi khi trẻ sơ sinh nam được nuôi dưỡng như những cô gái do dị tật thể chất, nhưng họ vẫn bị thu hút bởi phụ nữ. Các giả thuyết được đưa ra về nguyên nhân xã hội chỉ được hỗ trợ bởi bằng chứng không thuyết phục, bị bóp méo bởi nhiều yếu tố gây nhiễu.[1] Bằng chứng giữa các nền văn hóa cũng nghiêng nhiều hơn về các nguyên nhân phi xã hội. Các nền văn hóa rất khoan dung với đồng tính không có tỷ lệ đồng tính cao hơn đáng kể. Hành vi đồng tính là tương đối phổ biến ở nam sinh tại các trường nội trú nam sinh ở Anh, nhưng những người Anh trưởng thành từng học tại các trường như vậy không có nhiều khả năng thực hiện hành vi đồng tính hơn những người không học. Trong một trường hợp cực đoan, người Sambia theo nghi thức yêu cầu con trai của họ thực hiện hành vi đồng tính trong thời kỳ thanh thiếu niên trước khi chúng tiếp cận với phụ nữ, tuy nhiên hầu hết những chàng trai này đều là người dị tính.[30][31]

Người ta vẫn chưa hoàn toàn hiểu lý do tại sao các gen quy định hoặc cho phép đồng tính phát triển vẫn tồn tại trong vốn gen, dù chúng có thể là gì. Một giả thuyết liên quan đến việc chọn lọc theo dòng dõi cho rằng những người đồng tính đầu tư đủ mạnh vào người thân của họ để bù đắp chi phí không sinh sản nhiều một cách trực tiếp. Điều này không được chứng minh bởi các nghiên cứu ở các nền văn hóa phương Tây, nhưng một số nghiên cứu ở Samoa đã tìm thấy một vài minh chứng cho giả thuyết này. Một giả thuyết khác nhắc đến các gen xung đột tình dục - những gen là nguyên nhân của đồng tính luyến ái khi biểu hiện ở con đực nhưng lại tăng sinh sản khi biểu hiện ở con cái. Các nghiên cứu ở cả các nền văn hóa phương Tây và không phải phương Tây đã tìm thấy minh chứng cho giả thuyết này.[1][4]

Người ta đã đưa ra giả thuyết rằng bản thân hành vi tình dục đồng giới có thể là một sự thích nghi cho việc hình thành mối liên kết hoặc liên minh đồng giới,[32][33] mặc dù tính chất này sẽ khác nhau về mặt di truyền giữa các cá nhân[32] và xảy ra thường xuyên hơn khi sự cạnh tranh để giành được bạn tình đặc biệt gay gắt.[33] Nhà tâm lý học tiến hóa David Buss đã chỉ trích giả thuyết này, nói rằng không có bằng chứng nào cho thấy phần lớn nam thanh niên ở hầu hết các nền văn hóa sử dụng hành vi đồng tính để thiết lập liên minh; thay vào đó, các liên minh đồng giới thông thường không đi kèm với bất kỳ hoạt động tình dục nào.[4] Ngoài ra, ông nói rằng không có bằng chứng cho thấy những người đàn ông có hành vi đồng tính luyến ái làm tốt hơn những người đàn ông khác trong việc thành lập liên minh hoặc thăng tiến địa vị. Các nhà nghiên cứu khác cũng chỉ trích nó, nhận xét rằng dữ liệu giữa các nền văn hóa về thực hành tình dục là sơ sài và không đồng đều; không cần thiết phải cho rằng hành vi đồng tính luyến ái, hơn bất kỳ hành vi tình dục nào khác, được lựa chọn trực tiếp hơn là một sản phẩm phụ trung tính; giả thuyết bỏ qua sự tồn tại của xu hướng tính dục; nó mâu thuẫn với những phát hiện về tỷ lệ làm cha thấp hơn rất nhiều ở những người đàn ông có hành vi đồng tính hoặc song tính; hành vi quan hệ tình dục đồng giới của linh trưởng không phải là một hiện tượng đồng nhất và có khác biệt trong loài và giữa các loài; và vì bạn tình đồng giới được chọn dựa trên cảm xúc tình dục (trái ngược với, ví dụ, loài tinh tinh lùn), các quan hệ kiểu này sẽ chỉ xảy ra với cùng tần suất với sự hấp dẫn tình dục lẫn nhau, và sự thay đổi như vậy dường như cho thấy sự thiếu thiết kế qua chọn lọc tự nhiên.[34]